danh từ
sự bảo trợ
under somone's wardship: dưới sự bảo trợ của ai
quyền giám hộ
/ˈwɔːdʃɪp//ˈwɔːrdʃɪp/Thuật ngữ "wardship" có thể bắt nguồn từ tiếng Anh cổ "weard" có nghĩa là "người giám hộ". Từ này phát triển thành tiếng Anh trung cổ "ward" và cuối cùng thành từ tiếng Anh hiện đại "ward", có nghĩa là một người được một cá nhân khác bảo vệ và giám sát. Ở Anh thời trung cổ, Bộ trưởng Ngoại giao sẽ giám sát các điền trang của trẻ vị thành niên, được gọi là ward, có cha mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp đã chết, bỏ rơi họ hoặc đơn giản là chứng minh rằng họ không có khả năng quản lý tài sản. Văn phòng này được gọi là Văn phòng Wardship hoặc Văn phòng Keeper of the Privy Seal. Sau đó, Bộ trưởng Ngoại giao sẽ quản lý tài sản thừa kế cho đến khi trẻ vị thành niên đến tuổi trưởng thành, khi đó đất đai sẽ được trả lại. Thực hành giám hộ này vừa là một truyền thống pháp lý vừa là một cơ chế tăng doanh thu cho Vương miện. Thuật ngữ "wardship" xuất hiện như một từ ghép, với "ward" đại diện cho người được đề cập và "ship" có nghĩa là trách nhiệm hoặc quyền kiểm soát. Do đó, quyền giám hộ đề cập đến trách nhiệm pháp lý do Bộ trưởng Ngoại giao đảm nhiệm, với tư cách là người giám hộ tài sản của người được giám hộ, để cung cấp và quản lý quyền thừa kế của trẻ vị thành niên. Việc sử dụng quyền giám hộ như một thuật ngữ pháp lý để chỉ việc quản lý tài sản đã được duy trì trong các khu vực pháp lý theo luật chung, bao gồm cả Anh.
danh từ
sự bảo trợ
under somone's wardship: dưới sự bảo trợ của ai
Tòa án ra lệnh rằng đứa trẻ vị thành niên phải được ông bà nuôi dưỡng cho đến khi đủ tuổi trưởng thành.
Sau khi cha mẹ qua đời, đứa trẻ mồ côi được đưa đến sự bảo trợ của dì.
Vì đứa trẻ không còn người thân nào còn sống nên tòa án quyết định trao quyền giám hộ cho cậu bé và tìm cho cậu một người giám hộ phù hợp.
Thẩm phán đã giao cậu thiếu niên có vấn đề này cho người giám hộ, tạo cơ hội cho cậu được tư vấn và hỗ trợ.
Dì của đứa trẻ được chỉ định làm người giám hộ, trao cho bà quyền nuôi dưỡng hợp pháp và trách nhiệm chăm sóc đứa trẻ.
Quyền giám hộ đứa trẻ được chuyển giao cho ông bà ngoại sau khi rõ ràng là người mẹ không có khả năng chăm sóc đầy đủ.
Tòa án đã trao quyền giám hộ cho người cha, cho phép ông có toàn quyền nuôi con hợp pháp và quyền đưa ra quyết định liên quan đến việc giáo dục và nuôi dạy con.
Quyền giám hộ kết thúc khi đứa trẻ đến tuổi trưởng thành, trao cho đứa trẻ đầy đủ các quyền và trách nhiệm pháp lý của một người trưởng thành.
Tòa án nhận thấy rằng trẻ vị thành niên này cần được giám hộ do bị cha mẹ ruột bỏ bê và ngược đãi, nên phải nhờ một người họ hàng chăm sóc.
Quyền giám hộ đối với đứa trẻ kết thúc sau khi tòa án xác nhận rằng cô bé đã nhận được sự chăm sóc và hỗ trợ cần thiết, và đã sẵn sàng để tự đưa ra quyết định.